Trong các lĩnh vực
của đời sống xã hội, do tính chất công việc và đặc điểm hoạt động khác nhau nên
quy định về cách thức thu thập, trình tự thu thập hoặc thủ tục thu thập chứng cứ
cũng khác nhau. Có những ngành phải tuân theo trình tự, thủ tục chặt chẽ, nhưng
có ngành chỉ sử dụng những hình thức, thủ tục đơn thuần.
Trong tố tụng
hình sự, thu thập chứng cứ để xem xét hành vi đó có vi phạm hay không vi phạm
pháp luật, nếu có tội phạm xảy ra thì các cơ quan tiến hành tố tụng có cơ sở để
quyết định những biện pháp cần thiết trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử
như: áp dụng các biện pháp ngăn chặn, tiến hành điều tra để xác định tội danh,
trách nhiệm hình sự, áp dụng hình phạt...
Trong tố tụng
dân sự, thu thập chứng cứ là để xem xét, tìm ra chân lý khách quan của vụ án bảo
vệ quyền lợi cho một bên nào đó.
Trong
tố tụng hành chính, quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hành chính;
nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, cá nhân, cơ quan,
tổ chức có liên quan; trình tự, thủ tục khởi kiện, giải quyết vụ án hành chính,
thi hành án hành chính và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hành
chính.
Vậy, chứng cứ trong vụ án hành chính là những gì
có thật được đương sự,
cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Toà án hoặc do Toà án thu thập được
theo trình tự, thủ tục do Luật này quy định mà Toà án dùng làm căn cứ để xác
định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không
cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hành
chính.
( Điều 74 BLTTHC)
Việc
nghiên cứu chứng cứ nói chung, nguồn chứng cứ nói riêng trong vụ án hành chính có
một ý nghĩa lớn không chỉ về mặt pháp lý, mà còn có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn
rất quan trọng. Tuy nhiên, trong thực tế áp dụng đã xuất hiện một số
vấn đề chưa phù hợp với thực tiễn. Vì sao ? Chúng ta sẽ làm sáng tỏ vấn đề trên